Nguyễn Quốc Việt, Cựu sv lớp Nhân học 07, Khoa Nhân học, Trường ĐHKHXH&NV TP.HCM, sđt liên hệ 0911901806. Cảm ơn sự ghé thăm của bạn!

20 thg 8, 2014

Sự tích Ông Tà (Nek Tà) của người Khmer

Ông Tà hay Nek Tà là một vị thần trong văn hoá dân gian của người Khmer Nam bộ. Về nguồn gốc, có rất nhiều cốt truyện khác nhau được người dân kể lại. Tôi xin kể ra một số câu chuyện
thu thập được trong chuyến thực tập thực tế tại Tiểu Cần - Trà Vinh tháng 4/2010


            Sự tích về hai nữ Nekta
Câu chuyện đầu tiên về nguồn gốc ông Tà là từ Tăng Pêm – đó là một người đàn ông chừng 55 tuổi, ông chính là người cùng với ông Tư Trệt vận động bà con quyên góp tiền để xây dựng miếu ông Tà, và tổ chức cúng ông tà vào dịp tháng tư vừa rồi, Ông đã cung cấp cho tôi rất nhiều câu chuyện về sự linh thiêng của ông Tà ở Ấp Tân Đại và những câu chuyện do chính bản than ông trải nghiệm. Câu chuyện được kể như sau: "Ngày xưa khi còn chưa có Đức Phật nữa, ở vùng đất này có một người đàn ông lấy được hai bà vợ. Nhưng hai bà vợ này sống với nhau không có hợp, suốt ngày đánh ghen với nhau, không ai chịu ai, vì thế ông chồng mới sắp xếp cho hai người vợ đó mỗi người ở một đầu giồng (giồng là dải đất cao, lớn bằng một làng, xã, là nơi tụ cư của người Khmer), một bà ở đầu giồng còn một bà ở cuối giồng. Và hai người vợ đó sau này chết đi rất linh thiêng và được nhân dân thờ phụng và gọi là Nẹk tà. Tăng Pêm giải thích thì Nẹk tà dịch ra tiếng việt có nghĩa là những người có quan hệ như là sư huynh đệ, những người đàn bà có cùng chồng…Còn tà có nghĩa là ông, trong trường hợp này Nẹk tà có nghĩa là hai người vợ của một ông. Quay lại câu chuyện của hai bà vợ, sau khi được chồng chia tách ra thì họ vẫn thường xuyên ghen tuông nhau và hẹn nhau vào một thời điểm nào trong năm đó để phân tranh cao thấp với nhau. Hiên tượng phân tranh này nhiều năm gần đây vẫn còn sảy ra. Đó là hiện tượng vào ban đêm, những người dân thường thấy những cục lửa màu xanh lóe qua, lóe lại giữa hai miếu ông Tà ở ấp Tân Đại. Theo họ đó là hai Nẹk tà đang giao tranh với nhau. Những cuộc giao tranh này thường diễn ra vào thời điểm lúc qua mười hai giờ đêm của một ngày nào đó sát với dịp diễn ra lễ cúng ông Tà. Thời gian diễn ra hiện tượng đó kéo dài trong khoảng chừng ba mươi phút. 
Trong những câu chuyện thần thánh mà Tăng Pêm kể luôn có tính chất liêu trai kể cả trong cuộc sống thường ngày 
Sự tích về hai vị thần.
Một sự tích khác về ông Tà là từ ông Tư Tiên cư trú tại ấp Phú Thọ, xã Hiếu Trung, ông năm nay đã bảy mươi bảy tuổi rồi nhưng vẫn còn mạnh, Ông đã tu trong chùa mười ba năm sau đó mới hoàn tục và lấy vợ. Bây giờ đã già, nhưng ông cùng với vợ tiếp tục vô chùa tu tiếp từ lúc ông bảy mươi, ông dự định sẽ tu cho tới khi chết.
Sự tích này tôi nghe được hoàn toàn khác với sự tích về ông Tà qua câu chuyện của Tăng Pêm: Ngày xưa trước thời điểm Đức Phật xuất hiện khoảng hơn hai trăm năm, có hai người đàn ông, một người là thần linh ở trên trời, còn người kia ở dưới đất. Hai người có một thù oán cá nhân không cách nào hóa giải, họ đánh giết lẫn nhau trong thời gian rất dài từ đời này qua đời khác, cũng không hết. Cứ hoài như vậy, kiếp này người này chết đi thì kiếp sau lại được đầu thai và tìm người kia để trả thù, người bị trả thù thì lại đợi đến kiếp sau giết lại người kia. Vòng luân hồi thù hận đó kéo dài cho đến khi Đức Phập xuất hiện, Đức Phật đã gặp hai người và cảm hóa họ. Họ đã nhận đức Phật làm thầy dù cho tuổi họ lớn hơn rất nhiều so với đức Phật. Về sau, hai người này không còn thù hận nữa, trái lại họ bắt tay làm bạn và cùng giúp nhân dân làm ruộng. Người sống ở dưới đất gần với nhân dân, ông biết các phương thức làm nông nghiệp và dạy cho nhân dân biết trồng lúa. Còn ông thần ở trên trời biết cách làm mưa xuống cho nhân dân, giúp mùa màng tươi tốt. Người sống ở dưới đất được người dân hết sức biết ơn và khi chết đi được nhân dân lập miếu để thờ cúng. Mỗi năm đến mùa gieo hạt nhân dân lại làm một lễ lớn để cúng Nekta – ông thần ở dưới đất, thứ nhất là để cảm ơn ông đã dạy nhân dân biết cách trồng trọt, thứ hai là để ông chuyển lời lên bạn của ông – vị thần trên trời để làm mưa xuống.
Theo sự tích này, ông Tư Tiên cũng giải thích cho tôi rằng tại sao ở những nơi thờ ông Tà lại có đá: Nó là những đền miếu thời Nekta đã bị đổ vỡ từ rất lâu, đó là những bức tượng ông Nekta bị thời gian làm vỡ vụn rồi người dân mới gom chúng lại để làm kỉ niệm. Ông còn khẳng định rằng, cũng giống như Đức Thích ca, chỉ có một thôi nhưng chùa nào cũng thờ. Không phải mỗi là một vị Phật khác nhau mà nhiều chùa thờ một ông và tượng có thể làm khác nhau những bức tượng đó – tất cả đều là một Đức Phật. Ông Tà cũng vậy, một ông thôi nhưng nhiều nơi thờ, lại có nguồn gốc không được ghi lại cho nên người ta hiểu lầm là có nhiều ông Tà. Cúng ông Tà cũng không được dùng rượu vì ông Tà là để tử của Phật cũng tuân theo năm điều giới cấm. Đó là:
o   Không sát sinh, giết người.
o   Không ăn trộm ăn cắp.
o   Không nói dối.
o   Không hiếp dâm.
o   Không uốn rươu.
Đầu heo và rượu được nhân dân mang đến miếu ông Tà, thực ra thì đầu heo không phải để cúng cho ông Tà, mà mang đến để cho những người đến làm lễ người ta dùng với nhau để có sức kéo dài buổi lễ. Sau này, người dân không biết nên thờ cúng ông Tà bằng rượu mới đầu heo. Múa chằng, rồi hát Dù kê hay Lâm thol cũng về sau này để cho nhân dân tham gia đông đảo cho nên nhân dân cho thêm những hình thức nghệ thuật quần chúng để thu hút mọi người.
Sự tích về bà chằn.
Ngoài hai sự tích mà tôi thu thập nêu trên thì sự tích mà bạn Lê Thị Ngọc Phúc, lớp NH07 thu thập từ sư Cả chùa Ô Trao cũng rất đáng chú ý:
Hồi Đức Phật ra đời đã có tín ngưỡng cúng NeakTa, có một gia đình rất giàu gồm hai mẹ con. Người mẹ thấy con trưởng thành nên sắp xếp cho con trai lấy vợ nhưng vợ anh ta không thể có con để thay thế gia đình. Mẹ anh ta dự định cưới cho anh ta một cô vợ bé nhưng chưa kịp nói thì bị con dâu nghe được. Người vợ đem chuyện này đi hỏi chồng có muốn có vợ bé không vì cô ấy không thể sinh con. Người chồng đồng ý, thế là cô vợ chính cưới cho chồng một cô vợ bé nhưng quyền hành đều nằm trong tay cô vợ chính. Không chỉ thế, cô vợ chính tìm đủ cách để cô vợ bé không thể có con, nếu cô vợ bé có con bà tìm mọi cách phá cho cô vợ bé bị hư thai. Một lần, hai lần rồi ba lần, cô vợ bé rất tức giận và tranh đấu với cô vợ chính, thề sẽ đến một lúc nào đó sẽ ăn thịt con của người vợ lớn. Thế rồi, bà vợ bé mất đi và đầu thai sống lại, tìm cách ăn thịt con bà vợ lớn. Cứ như thế hết kiếp này đến kiếp khác. Kiếp cuối cùng, cô vợ bé sinh ra  thành bà chằn và đi ăn thịt đứa con bà vợ lớn. Thế nhưng bà chằn không ăn thịt được vì cô vợ lớn đã ẳm em bé chạy vào trong chùa. Vừa đến chùa, lúc đó Ông Phật đang thuyết pháp, còn bà chằn chạy đến chùa nhưng bị các nàng tiên giữ cổng chùa chặn lại, không cho vô nhưng Ông Phật bảo nàng tiên cứ để cho bà chằn vô vì ông Phật biết rất rõ về chuyện của hai người. Sau khi vào chùa, hai người được nghe Phật thuyết pháp, Phật giảng nếu ai cũng muốn thắng, muốn trả thù thì không bao giờ chấm dứt, hết đời này sang đời khác đi chăng nữa thì cũng như vậy. Hai người hiểu ra và không còn giận nhau nữa, sau đó hai người bắt tay làm bạn. Ông Phật mới bảo cô vợ đang ẳm đứa con giao đứa bé cho bà chằn ẳm, cô vợ sợ nên đã không đưa. Nhưng khi nghe Phật nói giờ bà chằn không thể ăn thịt em bé được vì bà đã thọ giới. Thế rồi, cô vợ cũng giao cho bà chằn, và em bé đã không khóc. Sau đó, bà chằn đi theo cô vợ này về ở chung với họ, cô vợ có con nuôi bà chằn. Thời gian trôi qua, bà chằn mất đi, cô vợ mới đem chôn cất bà ở đầu xóm. Cô vợ có con xuất phát từ vùng nông thôn nên nghề chính là làm ruộng. Năm nào ruộng nhà bà cũng trúng vụ, trong khi các hộ xung quanh thì không trúng mà có khi còn thất vụ. Bởi bà chằn thường báo cho cô vợ có con biết khi nào trời có mưa, chỗ nào nước sâu, nước cạn; chỗ nào nên trồng chỗ nào không … nên cô vợ có con mới trúng vụ. Cô vợ thấy dân làng thất mùa quá, bèn kể câu chuyện giữa cô và bà chằn cho mọi người nghe, thế là người dân ra chỗ bà chằn được chôn cúng vái, xin cho được trúng mùa vụ.
Như vậy bà chằng trong chuyện chính là Neakta mà người dân bây giờ tôn thờ. Và đồng thời cũng có lý khi mà ở trong những lễ cúng ông tà đều có hình thức múa chằng, đó là một cách múa mà những người đàn ông tham gia phải khỏe mạnh chia làm hai đội để đánh nhau, họ cũng vẽ lên mặt những đường nét quái dị, vừa nhảy múa vừa đánh lộn để mở đường cho kiệu rước đầu heo đi xung quanh làng.
Câu chuyện ông Tà diệt giặc
Một câu chuyện khác đó là: Chuyện kể của anh Giàu, người Kinh, 24 tuổi, con của người quản lý miếu Neakta ấp Tân Đại. – Ngọc Phúc thu thập ngày 24 – 5.
Ngày xưa, thời người Khmer và người Việt mới đến đây còn hoang sơ thì có giai đoạn người Khmer Đỏ tràn qua cướp bóc, giết hại người Khmer và người Việt. Ông Tà thấy vậy ra sức đánh đuổi giặc, ông giống như vị tướng, thân hình rắn chắc không có ai có thể chặt nổi. Bao nhiêu lính giặc qua đây đều bại dưới tay ông. Một lần có hai tên giặc bên đó sang, tìm giết ông nhưng không được. Ông thấy vậy mới ra điều kiện: ông sẽ cho bọn giặc giết chết nếu như bọn giặc hứa sẽ không cho quân sang đánh, làm hại đồng bào bên này. Cuối cùng bọn giặc nhận lời, ông đứng yên cho bọn đó dùng kiếm chém ông nhưng ông vẫn không chết vì da thịt của ông rất rắn chắc. Thế là, ông bày cho bọn giặc dùng kiếm chặt bẹ dừa nước làm đôi rồi dùng bẹ dừa nước đó chặt lên người ông, bọn giặc làm theo, quả nhiên lúc này chúng có thể chặt ông ra thành nhiều mảnh. Thế là ông Tà chết và lâu ngày da thịt ông hóa thành những viên đá, người dân nhớ đến công ơn của ông Tà nên đem những viên đá đó về thờ.
Thật khó để trong vòng vài ngày chúng tôi có thể kiểm chứng được những sự tích trên, sự tích nào là chính xác, và có căn cứ. Nhưng khi nói ở trên, đề tài này không có tham vọng khám phá ra lịch sử của một tín ngưỡng với khởi nguyên của nó ra sao, và các quá trình của nó như thế nào. Nhưng việc thu thập những sự tích như trên chắc chắn sẽ cung cấp cho người đọc những hiểu biết nhất định.
Kết luận:
Như đã thấy, những xóm ấp khác nhau lại cung cấp những sự tích khác nhau về ông Tà, điều này không phải là một điều bất hợp lý, bởi những câu chuyện như vậy đã được lan truyền ở mỗi xóm ấp khác nhau với những nội dung khác nhau từ nhiều đời, nhiều người kể. Và bằng cách nào đó, những sự tích vẫn phản ánh những nguyện vọng của người dân về một thế lực có thể làm cho cộng đồng họ trở lên tốt đẹp. Ta có thể nhận ra ở câu chuyện của Tăng Pêm nhu cầu về sự ấm cúng trong gia đình, sự nảy sinh mâu thuẫn và cách thức điều hòa mâu thuẫn. Câu chuyện của ông Tư Tiên và câu chuyện của sư cả Ô Trao với nguyện ước về một vị thần mang đến cho họ một mùa màng tươi tốt đáp ứng một cuộc sống no đủ. Ngoài ra hai câu chuyện này cũng là nói đến những mâu thuẫn và cách thức điều hành những mâu thuẫn đó là bao dung và tu hành. Còn câu chuyện của anh giàu thì lại thể hiện một nhu cầu cũng vô cùng hợp lý đó là sự bình yên của xóm làng, người dân được bảo vệ. Điểm chung của các câu chuyện này chính là nó đều thể hiên những nhu cầu của người dân. Và điều này ta có thể thấy rõ ở phần dưới với những chức năng được quy gán cho ông Tà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

THÍCH VÀ CHIA SẺ