thu thập được trong chuyến thực tập thực tế tại Tiểu Cần - Trà Vinh tháng 4/2010
Sự tích về hai nữ Nekta
Câu
chuyện đầu tiên về nguồn gốc ông Tà là từ Tăng Pêm – đó là một người đàn
ông chừng 55 tuổi, ông chính là người cùng với ông Tư Trệt vận động bà con
quyên góp tiền để xây dựng miếu ông Tà, và tổ chức cúng ông tà vào dịp tháng tư vừa
rồi, Ông đã cung cấp cho tôi rất nhiều câu chuyện về sự linh thiêng của ông Tà
ở Ấp Tân Đại và những câu chuyện do chính bản than ông trải nghiệm. Câu chuyện được kể như sau: "Ngày xưa khi còn chưa có Đức Phật nữa, ở vùng đất này có một người đàn ông
lấy được hai bà vợ. Nhưng hai bà vợ này sống với nhau không có hợp, suốt ngày
đánh ghen với nhau, không ai chịu ai, vì thế ông chồng mới sắp xếp cho hai
người vợ đó mỗi người ở một đầu giồng (giồng là dải đất cao, lớn bằng một làng, xã, là nơi tụ cư của người Khmer), một bà ở đầu giồng còn một bà ở cuối
giồng. Và hai người vợ đó sau này chết đi rất linh thiêng và được nhân dân thờ
phụng và gọi là Nẹk tà. Tăng Pêm giải thích thì Nẹk tà dịch ra tiếng việt có
nghĩa là những người có quan hệ như là sư huynh đệ, những người đàn bà có cùng
chồng…Còn tà có nghĩa là ông, trong trường hợp này Nẹk tà có nghĩa là hai người
vợ của một ông. Quay lại câu chuyện của hai bà vợ, sau khi được chồng chia tách
ra thì họ vẫn thường xuyên ghen tuông nhau và hẹn nhau vào một thời điểm nào
trong năm đó để phân tranh cao thấp với nhau. Hiên tượng phân tranh này nhiều
năm gần đây vẫn còn sảy ra. Đó là hiện tượng vào ban đêm, những người dân
thường thấy những cục lửa màu xanh lóe qua, lóe lại giữa hai miếu ông Tà ở ấp
Tân Đại. Theo họ đó là hai Nẹk tà đang giao tranh với nhau. Những cuộc giao
tranh này thường diễn ra vào thời điểm lúc qua mười hai giờ đêm của một ngày
nào đó sát với dịp diễn ra lễ cúng ông Tà. Thời gian diễn ra hiện tượng đó kéo
dài trong khoảng chừng ba mươi phút.
Trong những câu chuyện thần thánh mà Tăng Pêm kể luôn có tính chất liêu trai kể cả trong cuộc sống thường ngày
Sự
tích về hai vị thần.
Một
sự tích khác về ông Tà là từ ông Tư Tiên cư trú tại ấp Phú Thọ, xã Hiếu Trung,
ông năm nay đã bảy mươi bảy tuổi rồi nhưng vẫn còn mạnh, Ông đã tu
trong chùa mười ba năm sau đó mới hoàn tục và lấy vợ. Bây giờ đã già, nhưng ông
cùng với vợ tiếp tục vô chùa tu tiếp từ lúc ông bảy mươi, ông dự định sẽ tu cho
tới khi chết.
Sự
tích này tôi nghe được hoàn toàn khác với sự tích về ông Tà qua câu chuyện của
Tăng Pêm: Ngày xưa trước thời điểm Đức Phật xuất hiện khoảng hơn hai trăm năm,
có hai người đàn ông, một người là thần linh ở trên trời, còn người kia ở dưới
đất. Hai người có một thù oán cá nhân không cách nào hóa giải, họ đánh giết lẫn
nhau trong thời gian rất dài từ đời này qua đời khác, cũng không hết. Cứ hoài
như vậy, kiếp này người này chết đi thì kiếp sau lại được đầu thai và tìm người
kia để trả thù, người bị trả thù thì lại đợi đến kiếp sau giết lại người kia.
Vòng luân hồi thù hận đó kéo dài cho đến khi Đức Phập xuất hiện, Đức Phật đã
gặp hai người và cảm hóa họ. Họ đã nhận đức Phật làm thầy dù cho tuổi họ lớn
hơn rất nhiều so với đức Phật. Về sau, hai người này không còn thù hận nữa,
trái lại họ bắt tay làm bạn và cùng giúp nhân dân làm ruộng. Người sống ở dưới
đất gần với nhân dân, ông biết các phương thức làm nông nghiệp và dạy cho nhân
dân biết trồng lúa. Còn ông thần ở trên trời biết cách làm mưa xuống cho nhân
dân, giúp mùa màng tươi tốt. Người sống ở dưới đất được người dân hết sức biết
ơn và khi chết đi được nhân dân lập miếu để thờ cúng. Mỗi năm đến mùa gieo hạt
nhân dân lại làm một lễ lớn để cúng Nekta – ông thần ở dưới đất, thứ nhất là để
cảm ơn ông đã dạy nhân dân biết cách trồng trọt, thứ hai là để ông chuyển lời
lên bạn của ông – vị thần trên trời để làm mưa xuống.
Theo
sự tích này, ông Tư Tiên cũng giải thích cho tôi rằng tại sao ở những nơi thờ
ông Tà lại có đá: Nó là những đền miếu thời Nekta đã bị đổ vỡ từ rất lâu, đó là
những bức tượng ông Nekta bị thời gian làm vỡ vụn rồi người dân mới gom chúng
lại để làm kỉ niệm. Ông còn khẳng định rằng, cũng giống như Đức Thích ca, chỉ
có một thôi nhưng chùa nào cũng thờ. Không phải mỗi là một vị Phật khác nhau mà
nhiều chùa thờ một ông và tượng có thể làm khác nhau những bức tượng đó – tất
cả đều là một Đức Phật. Ông Tà cũng vậy, một ông thôi nhưng nhiều nơi thờ, lại
có nguồn gốc không được ghi lại cho nên người ta hiểu lầm là có nhiều ông Tà.
Cúng ông Tà cũng không được dùng rượu vì ông Tà là để tử của Phật cũng tuân
theo năm điều giới cấm. Đó là:
o
Không sát sinh, giết người.
o
Không ăn trộm ăn cắp.
o
Không nói dối.
o
Không hiếp dâm.
o
Không uốn rươu.
Đầu
heo và rượu được nhân dân mang đến miếu ông Tà, thực ra thì đầu heo không phải để cúng cho
ông Tà, mà mang đến để cho những người đến làm lễ người ta dùng với nhau để có
sức kéo dài buổi lễ. Sau này, người dân không biết nên thờ cúng ông Tà bằng
rượu mới đầu heo. Múa chằng, rồi hát Dù kê hay Lâm thol cũng về sau này để cho
nhân dân tham gia đông đảo cho nên nhân dân cho thêm những hình thức nghệ thuật
quần chúng để thu hút mọi người.
Sự
tích về bà chằn.
Ngoài
hai sự tích mà tôi thu thập nêu trên thì sự tích mà bạn Lê Thị Ngọc Phúc, lớp NH07 thu thập
từ sư Cả chùa Ô Trao cũng rất đáng chú ý:
Hồi Đức Phật ra đời đã có tín ngưỡng
cúng NeakTa, có một gia đình rất giàu gồm hai mẹ con. Người mẹ thấy con trưởng
thành nên sắp xếp cho con trai lấy vợ nhưng vợ anh ta không thể có con để thay
thế gia đình. Mẹ anh ta dự định cưới cho anh ta một cô vợ bé nhưng chưa kịp nói
thì bị con dâu nghe được. Người vợ đem chuyện này đi hỏi chồng có muốn có vợ bé
không vì cô ấy không thể sinh con. Người chồng đồng ý, thế là cô vợ chính cưới
cho chồng một cô vợ bé nhưng quyền hành đều nằm trong tay cô vợ chính. Không
chỉ thế, cô vợ chính tìm đủ cách để cô vợ bé không thể có con, nếu cô vợ bé có
con bà tìm mọi cách phá cho cô vợ bé bị hư thai. Một lần, hai lần rồi ba lần,
cô vợ bé rất tức giận và tranh đấu với cô vợ chính, thề sẽ đến một lúc nào đó
sẽ ăn thịt con của người vợ lớn. Thế rồi, bà vợ bé mất đi và đầu thai sống lại,
tìm cách ăn thịt con bà vợ lớn. Cứ như thế hết kiếp này đến kiếp khác. Kiếp
cuối cùng, cô vợ bé sinh ra thành bà
chằn và đi ăn thịt đứa con bà vợ lớn. Thế nhưng bà chằn không ăn thịt được vì
cô vợ lớn đã ẳm em bé chạy vào trong chùa. Vừa đến chùa, lúc đó Ông Phật đang
thuyết pháp, còn bà chằn chạy đến chùa nhưng bị các nàng tiên giữ cổng chùa
chặn lại, không cho vô nhưng Ông Phật bảo nàng tiên cứ để cho bà chằn vô vì ông
Phật biết rất rõ về chuyện của hai người. Sau khi vào chùa, hai người được nghe
Phật thuyết pháp, Phật giảng nếu ai cũng muốn thắng, muốn trả thù thì không bao
giờ chấm dứt, hết đời này sang đời khác đi chăng nữa thì cũng như vậy. Hai
người hiểu ra và không còn giận nhau nữa, sau đó hai người bắt tay làm bạn. Ông
Phật mới bảo cô vợ đang ẳm đứa con giao đứa bé cho bà chằn ẳm, cô vợ sợ nên đã
không đưa. Nhưng khi nghe Phật nói giờ bà chằn không thể ăn thịt em bé được vì
bà đã thọ giới. Thế rồi, cô vợ cũng giao cho bà chằn, và em bé đã không khóc.
Sau đó, bà chằn đi theo cô vợ này về ở chung với họ, cô vợ có con nuôi bà chằn.
Thời gian trôi qua, bà chằn mất đi, cô vợ mới đem chôn cất bà ở đầu xóm. Cô vợ
có con xuất phát từ vùng nông thôn nên nghề chính là làm ruộng. Năm nào ruộng
nhà bà cũng trúng vụ, trong khi các hộ xung quanh thì không trúng mà có khi còn
thất vụ. Bởi bà chằn thường báo cho cô vợ có con biết khi nào trời có mưa, chỗ
nào nước sâu, nước cạn; chỗ nào nên trồng chỗ nào không … nên cô vợ có con mới
trúng vụ. Cô vợ thấy dân làng thất mùa quá, bèn kể câu chuyện giữa cô và bà
chằn cho mọi người nghe, thế là người dân ra chỗ bà chằn được chôn cúng vái,
xin cho được trúng mùa vụ.
Như vậy bà chằng trong chuyện chính là
Neakta mà người dân bây giờ tôn thờ. Và đồng thời cũng có lý khi mà ở trong
những lễ cúng ông tà đều có hình thức múa chằng, đó là một cách múa mà những
người đàn ông tham gia phải khỏe mạnh chia làm hai đội để đánh nhau, họ cũng vẽ
lên mặt những đường nét quái dị, vừa nhảy múa vừa đánh lộn để mở đường cho kiệu
rước đầu heo đi xung quanh làng.
Câu chuyện ông Tà diệt giặc
Một câu chuyện khác đó là: Chuyện kể của anh Giàu, người
Kinh, 24 tuổi, con của người quản lý miếu Neakta ấp Tân Đại. – Ngọc Phúc thu
thập ngày 24 – 5.
Ngày xưa, thời người Khmer và người Việt
mới đến đây còn hoang sơ thì có giai đoạn người Khmer Đỏ tràn qua cướp bóc,
giết hại người Khmer và người Việt. Ông Tà thấy vậy ra sức đánh đuổi giặc, ông
giống như vị tướng, thân hình rắn chắc không có ai có thể chặt nổi. Bao nhiêu
lính giặc qua đây đều bại dưới tay ông. Một lần có hai tên giặc bên đó sang,
tìm giết ông nhưng không được. Ông thấy vậy mới ra điều kiện: ông sẽ cho bọn
giặc giết chết nếu như bọn giặc hứa sẽ không cho quân sang đánh, làm hại đồng
bào bên này. Cuối cùng bọn giặc nhận lời, ông đứng yên cho bọn đó dùng kiếm
chém ông nhưng ông vẫn không chết vì da thịt của ông rất rắn chắc. Thế là, ông
bày cho bọn giặc dùng kiếm chặt bẹ dừa nước làm đôi rồi dùng bẹ dừa nước đó chặt
lên người ông, bọn giặc làm theo, quả nhiên lúc này chúng có thể chặt ông ra
thành nhiều mảnh. Thế là ông Tà chết và lâu ngày da thịt ông hóa thành những
viên đá, người dân nhớ đến công ơn của ông Tà nên đem những viên đá đó về thờ.
Thật khó để trong vòng vài ngày chúng
tôi có thể kiểm chứng được những sự tích trên, sự tích nào là chính xác, và có
căn cứ. Nhưng khi nói ở trên, đề tài này không có tham vọng khám phá ra lịch sử
của một tín ngưỡng với khởi nguyên của nó ra sao, và các quá trình của nó như thế
nào. Nhưng việc thu thập những sự tích như trên chắc chắn sẽ cung cấp cho người
đọc những hiểu biết nhất định.
Kết luận:
Như đã thấy, những xóm ấp khác nhau lại
cung cấp những sự tích khác nhau về ông Tà, điều này không phải là một điều bất
hợp lý, bởi những câu chuyện như vậy đã được lan truyền ở mỗi xóm ấp khác nhau
với những nội dung khác nhau từ nhiều đời, nhiều người kể. Và bằng cách nào đó,
những sự tích vẫn phản ánh những nguyện vọng của người dân về một thế lực có
thể làm cho cộng đồng họ trở lên tốt đẹp. Ta có thể nhận ra ở câu chuyện của
Tăng Pêm nhu cầu về sự ấm cúng trong gia đình, sự nảy sinh mâu thuẫn và cách
thức điều hòa mâu thuẫn. Câu chuyện của ông Tư Tiên và câu chuyện của sư cả Ô
Trao với nguyện ước về một vị thần mang đến cho họ một mùa màng tươi tốt đáp
ứng một cuộc sống no đủ. Ngoài ra hai câu chuyện này cũng là nói đến những mâu
thuẫn và cách thức điều hành những mâu thuẫn đó là bao dung và tu hành. Còn câu
chuyện của anh giàu thì lại thể hiện một nhu cầu cũng vô cùng hợp lý đó là sự
bình yên của xóm làng, người dân được bảo vệ. Điểm chung của các câu chuyện này
chính là nó đều thể hiên những nhu cầu của người dân. Và điều này ta có thể
thấy rõ ở phần dưới với những chức năng được quy gán cho ông Tà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét