Nguyễn Man Nhiên
Từ
bao đời nay, người dân làm nghề biển giã rất sùng kính cá Voi, coi đó
là một vị thần tối cao luôn cứu giúp họ khi gặp hoạn nạn trên biển cả.
Trong các đình làng biển ở Khánh Hòa, ngoài bàn thờ Tiền hiền, Hậu
hiền còn có bàn thờ Ông Nam Hải (tức cá Voi). Vào tháng 3 hoặc tháng 7 âm lịch hàng năm, ngư dân thường tổ chức lễ hội cầu ngư với mục đích cầu Ông Nam Hải ban cho một mùa cá bội thu và phù hộ dân làng được bình an, mạnh khỏe.
hiền còn có bàn thờ Ông Nam Hải (tức cá Voi). Vào tháng 3 hoặc tháng 7 âm lịch hàng năm, ngư dân thường tổ chức lễ hội cầu ngư với mục đích cầu Ông Nam Hải ban cho một mùa cá bội thu và phù hộ dân làng được bình an, mạnh khỏe.
Nguồn
gốc sâu xa của lễ hội cầu ngư là tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư
dân các tỉnh duyên hải miền Trung và Nam bộ. Xưa nay, những truyền
thuyết, giai thoại về Ông Nam Hải lưu truyền trong dân gian luôn xuất
phát từ việc cá Voi cứu giúp người bị nạn ngoài biển khơi những khi sóng
to gió lớn, đồng thời ban cho ngư dân được lắm tôm nhiều cá. Sách “Đại
Nam Nhất Thống Chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn chép: “Cá Voi có tục
danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn
láng, không có vảy, đuôi có hai chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay
giải cứu cho người khi qua biển mắc nạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng, vua
đặt tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại Đức Ngư”. Sách “Gia
Định Thành Thông Chí” của sử gia Trịnh Hoài Đức cũng chép: “Thần là con
cá nhân ngư... Ngư phủ giăng lưới đánh cá, thường hô là thần mà cầu khấn
thì nhân ngư đuổi cả bầy cá chạy vào lưới, ngư phủ rất cảm ơn. Có khi
nhân ngư lầm vào trong lưới, thì ngư phủ mở một mặt lưới kêu mà dẫn ra,
nhân ngư ắt theo cửa ấy mà ra”. Nhà nghiên cứu Lê Quang Nghiêm, trong
sách “Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hoà”, ghi lại một truyền
thuyết mang đậm sắc thái Phật giáo về nguồn gốc cá voi như sau: “Theo
huyền thoại, xưa kia Đức Phật Quan Âm trong lần tuần du đại hải, Bồ Tát
ngậm ngùi đau xót cho số phận của người trần bị chết chìm ngoài biển
khơi, nên xé chiếc áo cà sa làm muôn mảnh thả trên mặt biển làm phép
thành cá Ông, lấy bộ xương voi ban cho để cá Ông có thân hình to lớn,
lại ban phép thâu đường để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt
người lâm nạn”. Trong tác phẩm “Nếp cũ hội hè đình đám”, học giả Toan
Ánh cũng ghi nhận: “Những người dân sống ở biển cả đều cầu nguyện đến cá
voi mỗi lần lâm nạn. Theo ngư dân ven biển Bình Thuận, họ có 12 câu
nguyện gọi là Thập nhị đại nguyện. Tương truyền là của đức Quan Thế Âm
truyền cho họ để họ cầu lên kêu cứu với Nam Hải đại vương trước mọi tai
nạn”.
Các
lão ngư kể lại rằng, khi lâm nạn hoặc khi thuyền giăng lưới ngoài khơi,
người ta thường van vái xin “Ông” giúp đỡ. Ông như nghe được lời cầu
khẩn mà phun nước phì phì lùa cả bầy cá vô lưới, chở khẳm thuyền chưa
hết. Nhiều khi “vui” mà quên mất lối ra, người ta phải mở lưới, kêu và
dẫn Ông ra ngoài. Ông đi rồi ai cũng ngậm ngùi đưa tiễn!
Từ
đức tin ấy, cá Voi đã trở thành một vị Phúc Thần trong đời sống tâm
linh của cư dân ven biển, được dân gian thành kính gọi bằng nhiều danh
xưng trân trọng: Ông Lớn, Ông Sanh, Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Nam Hải…,
được các vua triều Nguyễn sắc phong tước hiệu là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân
Tôn Thần, trong cái bài văn tế cúng lăng thường gọi bằng thần hiệu Đông
Hải Đại vương hoặc Nam Hải thủy thần.
Cá
Voi thường được ngư dân gắn với sự ấm no, hưng thịnh của vạn chài.
Những lúc cá Voi bị mắc cạn, ngư dân tìm mọi cách đưa “Ông” về với biển.
Khi Ông lị (chết), xác trôi dạt vào bờ, ngư dân dựng lán che nắng, canh
giữ, đợi tới khi thịt rã hết, lấy rượu lau khô hài cốt rồi cho vào hòm,
tổ chức nghi lễ hết sức trang nghiêm, chu đáo, rước hài cốt về nơi
trang trọng nhất trong lăng của thôn hoặc xã địa phương để phụng thờ. Họ
tin rằng thôn làng nào được Ông vào lị thì sẽ làm ăn phát đạt, đánh bắt
an toàn.
Văn
hóa đình - lăng là mảng văn hóa lớn ở Khánh Hòa: đình của làng nông
nghiệp, lăng của làng ngư nghiệp. Cá Voi với người vốn gắn bó, nên khi
sống cá được tôn kính, khi chết cá hiển linh thành Thánh, được ngư dân
tôn làm thượng đẳng thần, xây lăng tẩm thờ cúng. Nếu là cá Voi đực chết
già gọi là lăng Ông, chết trẻ gọi là lăng Cậu. Cá Voi cái chết già gọi
là lăng Bà, chết trẻ gọi là lăng Cô. Hàng ngày có người hương khói, hàng
năm lấy ngày Ông lị làm giỗ chung gọi là cúng lăng. Lệ xưa, người đầu
tiên gặp Ông lị phải để tang Ông ba năm như tang cha mẹ và lo việc cúng
giỗ hàng năm, như ghi chép của sử gia Trịnh Hoài Đức vào đầu thế kỷ XIX:
“Dân miền biển đến kính lễ, thấy thây cá voi này trôi dạt, dân chài
lưới góp tiền mua vải hòm liệm chôn, người trưởng trong ngư hộ đứng làm
tang chủ, cất đền phụng sự”.
Dọc
theo các làng xã ven biển Khánh Hoà đều có lăng thờ Ông Nam Hải với mật
độ khá dầy đặc. Theo thống kê của các ngành chức năng, hiện toàn tỉnh
có 50 lăng phân bố đều khắp các huyện, thị, xã, phường ven biển và hải
đảo. Thường mỗi xã, phường có 1 lăng, cũng có xã có đến 2, 3, 4 lăng,
thậm chí có đến 6 lăng do mỗi thôn đều có một lăng.
Lăng
Ông được xây dựng để làm nơi thờ cúng đồng thời phục vụ các nghi thức
tế lễ, các cuộc sinh hoạt cộng đồng, biểu diễn nghệ thuật. Lăng thường
được xây bên cửa lạch hướng ra biển cả, trên khoảng đất cao ráo, thoáng
mát. Chung quanh lăng xây tường bao, rộng hàng nghìn mét vuông. Kết cấu
chính gồm Chánh điện chứa quách đựng ngọc cốt (bộ xương cá Voi). Có lăng
nhiều quách, vì có khi cả quần thể cá vào lị cùng một lúc. Quách có
quách Ông, quách Bà, quách Cô, quách Cậu. Hai bên tả hữu chánh điện thờ
Bà Vạn Lạch và Thiên Y Thánh Mẫu. Gian lớn thờ Tiền hiền và các anh hùng
liệt sĩ, kế đến là gian để đãi khách trong ngoài vạn lạch ăn uống, sau
nữa đến gian bếp. Đối diện với chánh điện vài chục mét là võ ca, tức sân
khấu để hát bộ. Sân khấu rộng khoảng 20 - 25m2, trang hoàng lộng lẫy,
ba mặt tiếp giáp với khán giả, phía sau là bàn thờ tổ Tuồng được thiết
lập khi có tế lễ.
Có
những nơi đình làng và lăng Ông được xây chung trong một địa điểm, gọi
là “đình lăng hợp nhất”. Trong trường hợp này bao giờ dân làng cũng dành
gian chính giữa của phần Hậu điện làm điện thờ Ông Nam Hải.
Hiện
nay, người dân làm nghề biển ở Khánh Hòa vẫn duy trì tục thờ cúng cá
Ông dưới hình thức lễ tế Ông Nam Hải hay còn gọi là lễ hội cầu ngư. Ngày
xưa “xuân thu nhị kỳ”, xuân cúng đình, thu cúng lăng. Nay hợp nhất đình
lăng cúng một lần. Việc cúng tế, năm nào vạn lạch cũng làm lễ dâng
hương, còn cúng lớn thì thông lệ 3 năm 1 lần, song vạn lạch nào làm ăn
giàu có thì cứ mỗi năm 1 lần vào ngày “Ông” lị (chết), hoặc do các bô
lão trong lạch định ngày rồi hàng năm cứ vào ngày ấy, giờ ấy mà tế lễ.
Thời gian tế lễ kéo dài khoảng 3 ngày, với sự tham gia của hàng nghìn
người, với nhiều hình thức nghi lễ, trò diễn dân gian… diễn ra nhộn nhịp
và trang trọng. Đặc biệt có rước đoàn hát bộ về hát cúng lăng và trình
diễn phục vụ bà con suốt mấy ngày đêm.
Kinh
phí trang trải cho lễ hội và đoàn hát do sự đóng góp tự giác và thành
tâm của ngư dân trong vùng. Mức đóng góp tùy theo gia đình, tùy kinh
doanh lớn bé, tùy thuyền to nhỏ… mà Ban Tổ chức ấn định thu sao cho đủ
nhu cầu. Điều kiện vật chất ấy có được là sự thể hiện tình cảm, niềm
tin, trách nhiệm, bổn phận của cả cộng đồng vạn lạch.
Lễ
hội cầu ngư là lễ hội dân gian truyền thống của ngư dân các làng biển,
phát triển từ lễ cúng lăng tức lễ tế Ông Nam Hải. Lễ hội gồm có hai
phần: Lễ đình và Hội làng (cũng diễn ra tại sân đình).
Phần Lễ có các lễ sau:
- Lễ rước sắc:
Ví dụ lễ hội cầu ngư của Đình Trường Tây (thuộc khóm Tây Hải, phường
Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang) vào các ngày 16, 17 tháng 7 âm lịch hàng
năm. Vị tiền hiền của làng Tây Hải là ông Nguyễn Loan, dưới triều Nguyễn
giữ chức Suất đội, quản lý đảo Yến. Trong một trận giao tranh với giặc
Tàu Ô, ông đã chiến đấu bảo vệ đảo Yến đến hơi thở cuối cùng. Vua nhà
Nguyễn có ban sắc phong, nay vẫn còn lưu giữ tại nhà con cháu trong
thôn. Hàng năm cúng đình, các cụ thường làm lễ tại nhà con cháu ông, rồi
rước sắc ra đình để tế, sau đó lại rước trả về.
- Lễ nghinh Ông
(còn gọi là nghinh Thủy Triều): tức lễ rước linh hồn Ông Nam Hải.
Khoảng 5 giờ sáng, đoàn nghinh Ông khởi hành từ đình hoặc lăng Ông đến
bãi biển rồi lên 3 chiếc ghe nghề chờ sẵn trực chỉ ra khơi. Ghe đi
nghinh Ông phải là ghe tốt, chủ ghe là người có đức độ, làm ăn giỏi, gia
đình thuận hoà, êm ấm… Ghe chính lập hương án ở mũi ghe, chở Ban nghi
lễ cùng đội nhạc với chiêng trống, cờ phướn, lọng che rất uy nghiêm. Ghe
bên trái chở Tổng Mũi và đoàn Bá trạo 8 người, ghe bên phải chở Tổng
Lái, Tổng Thương và đoàn Bá trạo 8 người cùng các bậc hào lão, kỳ mục.
Theo sau đoàn là các ghe thuyền của dân làng. Chiếc ghe có chủ tế đi
đầu, hai ghe tiếp theo đi hai bên đều nhau thành hình tam giác cân, cứ
thế đi theo hướng mặt trời mọc ra khơi, đến nơi qui định (vùng cá Ông
lị) thì dừng lại. Chiêng trống nổi lên, người chủ tế mặc áo dài khăn
đóng nghiêm trang đứng trước hương án bắt đầu vái hương và cầu khấn. Khi
lễ cúng hoàn tất, cả đoàn người reo hò vang dậy, ghe đồng loạt nổ máy,
quay mũi hướng vào bờ.
Trên
đường về, ghe chính đi trước, hai ghe tả hữu đi hai bên, đến gần bờ ghe
chính vẫn đi giữa còn hai ghe kia đảo qua đảo lại chạy chung quanh ghe
chính ba lần theo kiểu cá Ông bơi lụy vào bờ. Lúc này dân làng tụ tập
rất đông trên bến để nghinh đón “linh” cá Ông về. Trong đình đèn nến
sáng choang, hương trầm nghi ngút. Khi hương án đã được an vị, đoàn Bá
trạo chuẩn bị ra sân trình diễn. Một đoàn Bá trạo thường gồm 19 người
(không kể ban nhạc) chia ra 8 cặp (16 người) làm bạn chèo. Ba người còn
lại thì một người đóng vai Tổng Mũi tay cầm nhịp phách chỉ huy đoàn Bá
trạo, ở giữa là Tổng Thương (đại diện cho cả ba nhiệm vụ: buôn bán, nấu
bếp, tát nước), tay cầm cây trượng đầu trên có chạm hình con cá. Tổng
Lái đứng dưới cùng, hóa trang thành một cụ già râu tóc bạc phơ, tay cầm
cây chèo dọc lúc “cạy” sang trái, lúc “bát” sang phải giống như đang lèo
lái con thuyền. Các trạo phu xếp thành hai hàng, vận sắc phục cổ
truyền, vừa hò bài trạo vừa cầm mái chèo thể hiện những động tác nhịp
nhàng mô phỏng cảnh sinh hoạt, lao động đánh cá của ngư dân giữa biển
khơi. Lễ nghinh Ông kết thúc cùng với trò diễn hò Bá trạo trước điện
thờ.
- Lễ tế sanh:
mở đầu phần tế lễ là lễ tế sanh tức mổ heo cúng thần. Vật hiến tế phải
là 3 con heo “toàn sắc”, “toàn sinh” tức là loại heo lông tuyền một màu
đen hoặc trắng và tế sống nguyên con chứ không chặt xẻ. Trong lễ có nghi
thức “ế mao huyết”, sau khi thọc huyết heo, lấy ba chén rượu pha huyết
rồi cạo một nhúm lông heo bỏ vào từng ly, đặt lên bàn thờ.
- Lễ tế Ông Nam Hải:
Sau lễ tế sanh đến tế chánh. Trong tế chánh thì tế đình (tức tế Tiền
hiền) trước, tế Bà Thiên Y Thánh Mẫu sau, cuối cùng tế Ông Nam Hải. Nội
dung bài văn tế ca ngợi công đức to lớn của Ông Nam Hải và lời cầu xin
quốc thái dân an, tấn tài tấn lợi cho vạn lạch.
- Thứ lễ:
phần tiếp theo của tế chánh là hát thứ lễ, tức là hát cúng lăng, cúng
Thần do đoàn hát bộ đảm trách. Các vở tuồng thứ lễ phải là tuồng Ông
(Ông đây chỉ nhân vật lịch sử Quan Vân Trường sống vào thời Tam Quốc
cuối nhà Hán bên Trung Hoa, dân gian thường gọi là Quan Công hay Quan
Thánh Đế quân). Hình ảnh vị tướng tài ba Quan Công mặt đỏ, râu dài, tay
cầm thanh long đao, cưỡi ngựa Xích Thố trong các lớp tuồng cổ như “Tam
Anh Chiến” hay “Phục Huê Dung” đại diện cho những giá trị cao cả của
nhân sinh: can đảm, dũng mãnh, tiết tháo, nhân nghĩa, chính trực. Trong
tâm thức dân gian, khi hát cúng Ông (Nam Hải) thì phải hát tuồng Ông
(Quan Công). Như vậy, việc nhân hoá và thần hóa cá Voi đồng nhất với
việc hòa nhập vào một nhân thần hiển thánh có sức mạnh vô biên và đức độ
muôn mặt.
Hát
thứ lễ chỉ trong 3 đến 4 giờ nhưng là khâu rất quan trọng, “nhất thứ lễ
nhì tôn vương”. Đoàn hát phải đến cúng xin Đức Ngài. Nếu trong quá
trình biểu diễn có sơ suất thì bị Ban Tổ chức khiển trách, nếu nặng sẽ
bị phạt. Nghệ sĩ đóng vai Quan Công phải ăn chay niệm Phật, đêm ngủ
trong lăng. Khi xem hát, lúc Quan Công xuất hiện tất cả mọi người phải
đứng dậy để tỏ lòng tôn kính. Hát thứ lễ càng nghiêm túc bao nhiêu thì
người ta càng tin rằng sẽ gặp được nhiều điều may mắn, tốt lành trong
chuyến đi biển sắp tới bấy nhiêu.
- Lễ tôn vương:
Tôn vương là phần cuối cùng của lễ tế. Nội dung tôn vương là một hoạt
cảnh ca múa dân gian với các điệu múa Tứ linh, múa Chúc rượu, múa Xổ
liễn. Người dự thường chỉ là các chức sắc, khách mời, thành viên Ban Tổ
chức. Dân làng, trẻ em, những người đang có tang không được vào xem.
Sau
phần Lễ là phần Hội. Đó là những giờ hát bộ do các đoàn Tuồng (nghiệp
dư hoặc chuyên nghiệp) được Ban Tổ chức mời đến biểu diễn phục vụ dân
làng, nên còn gọi là hát đãi, có nơi còn gọi là hát lòng án. Hát lòng án
không ấn định như 3 vở tuồng thứ lễ, mà tuồng tích do Ban Tổ chức yêu
cầu, đoàn hát phải tuân thủ. Thời gian hát Tuồng phục vụ cho lễ hội cầu
ngư thường kéo dài trong suốt ba bốn ngày liền, ban đêm có khi diễn đến
tận 2 - 3 giờ sáng nhưng vẫn thu hút rất đông khán giả. Các đêm hát này
không dính dáng đến nghi lễ, chỉ mang tính chất giải trí.
Nguồn: vannghesongcuulong.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét